Lương của Tổng thống Nga Putin bao nhiêu?

Lương của Tổng thống Nga Putin bao nhiêu?

Ông Putin tuyên bố tự giảm lương của mình và các thành viên nội các như một động thái ứng phó với tình hình kinh tế ảm đạm của Nga. Nhưng ông đang nhận lương bao nhiêu?

Hãng tin Itar-Tass cho biết từ ngày 1.3 lương thưởng của Thủ tướng Dmitri Medvedev, Công tố viên trưởng Yury Chaika và chủ tịch Ủy ban Điều tra Alexander Bastrykin sẽ bị giảm, trong khi Tổng thống và các thành viên thuộc phủ tổng thống sẽ áp dụng mức cắt giảm vào ngày 1.5.

Ông Putin cho biết sẽ giảm lương 10%, trong khi các quan chức khác sẽ nhận mức giảm dao động từ 5% đến 20%, theo Business Insider.

Động thái này cho thấy nhà nước vẫn đang đấu tranh dưới sức nặng của các lệnh trừng phạt kinh tế từ châu Âu và giá dầu xuống thấp.

Lạm phát trong nước tăng lên mức 16,7% trong tháng 2, một tỷ lệ tăng giá chưa từng thấy trong hơn một thập kỷ qua. Đó cũng là hệ quả từ việc đồng rúp rớt giá so với USD và biện pháp trừng phạt tự đối với hàng nhập khẩu phương Tây tiếp tục đẩy giá tiêu dùng tăng ngất ngưỡng. Người Nga dự kiến sẽ phải chi một nửa tiền lương cho nhu cầu thực phẩm trong năm 2015, theo CNN.

Hãng tin CNN cũng nhân chuyện ông Putin giảm lương để nói về thu nhập của người đứng đầu điện Kremlin.

Theo đó dù tuyên bố giảm 10% lương, song nó cũng gợi nhớ việc ông Putin đã hưởng chế độ hơn gấp đôi trong năm qua.
Cụ thể CNN nói ông Putin nhận lương 3,6 triệu rúp/năm, tương đương 59.800 USD ở thời điểm 2013. Tuy nhiên năm 2014, ông tăng gấp đôi lên 9 triệu rúp (150.000 USD)/năm.

Đó là con số chưa lớn nếu so với Tổng thống Mỹ Barack Obama (400.000 USD/năm) hay Thủ tướng Đức Angela Merkel (240.000 USD/năm).
Mặc dù vậy, CNN hay Bloomberg trước đó cũng đưa các thông tin cho thấy ông Putin thực sự là vị nguyên thủ siêu giàu. Thậm chí với tài sản ước tính 200 tỉ USD từ thời kỳ làm Tổng thống và các hoạt động gửi tiền, đầu tư… ông Putin còn là người giàu nhất thế giới

Giang Giang /DoanhnhanSG

Giám đốc tài chính Google từ chức để đưa vợ đi du lịch

Giám đốc tài chính Google từ chức để đưa vợ đi du lịch

Giám đốc tài chính Google Patrick Pichette đã gửi thư xin từ chức để đi du lịch vòng quanh thế giới cùng người vợ yêu chỉ 7 năm sau ngày gia nhập Google. Pichette cho biết mình đưa ra quyết định như vậy bởi chẳng có thời điểm nào là tốt để từ bỏ cuộc ganh đua quyết liệt này.

Patrick Pichette là giám đốc tài chính (CFO) của Google. Ông có gần 20 năm kinh nghiệm về quản lý và hoạt động tài chính trong lĩnh vực viễn thông.

Trong một bài đăng trên Google Plus vào 10/3/2015, Pichette 52 tuổi cho biết, quyết định của mình xuất phát từ việc nhận ra ông không thể đưa ra bất cứ một lý do hợp lý nào để trì hoãn việc đi du lịch cùng bà Tamar, người vợ yêu ông.

Nội dung bức tâm thư của Pichette viết:

“Sau gần 7 năm giữ vị trí Giám đốc tài chính, tôi sẽ xin từ chức ở Google để dành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Tôi biết, nhiều người đã biết thông tin này từ trước. Chúng tôi đã hy sinh nhiều cho công việc. Thực sự tôi đã làm vậy. Tôi không hề trông đợi bất cứ sự cảm thông nào mà chỉ muốn chia sẻ suy nghĩ của tôi vì nhiều người vẫn hàng ngày vật lộn tìm cách cân bằng giữa cuộc sống và công việc.

Câu chuyện bắt đầu từ mua thu năm ngoái. Một buổi sáng sớm tháng 9, sau một đêm leo núi ngắm mặt trời mọc trên đỉnh Kilimanjaro ở châu Phi, Tamar (vợ tôi) và tôi không chỉ được tận hưởng cảnh mặt trời mọc mà vì đó còn là một ngày quang đãng nên chúng tôi có thể phóng tâm mắt đi rất xa, vùng đồng bằng rộng lớn Serengeti trải dưới chân chúng tôi. Và từ cảnh tượng ấy, chúng tôi liên tưởng đến những chuyến khám phá châu Phi.

Tamar buồn bã nói với tôi: “Tại sao chúng ta không đi mãi”. Hãy cùng khám phá châu Phi, hãy đi về phía Nam để tìm đường đến Ấn Độ, nó ở ngay sát chúng ta mà thôi và chúng ta đã đến được tới đây rồi. Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi; tới Himalayas, Everest, tới Bali, rặng san hô Great Barrier,… Nam Cực, hãy cùng đến Nam Cực. Lúc đó, cô ấy đã không hề biết rằng mình đang đưa ra một lời đề nghị liều lĩnh.

Tôi nhớ mình đã trả lời Tamar đúng theo cách của một vị Giám đốc tài chính điển hình và đáng tin, rằng tôi rất muốn đi tiếp nhưng chúng tôi phải quay trở lại. Giờ chưa đến lúc. Còn rất nhiều điều phải làm ở Google, còn sự nghiệp của tôi, còn rất nhiều người cần đến tôi.

Rồi sau đó, cô ấy đã hỏi một câu hỏi đắt giá: Vậy khi nào mới là đến lúc? Đến lúc cho chúng ta? Đến lúc cho em? Câu hỏi ấy vẫn còn treo lơ lửng trên bầu trời buổi sáng lạnh lẽo của châu Phi.

Một vài tuần sau, tôi từ công ty trở về nhà trong tâm trạng hạnh phúc, nhưng tôi không thể quên câu hỏi của cô ấy: “Khi nào là thời điểm tốt để chúng ta tiếp tục hành trình? Và từ đó tôi bắt đầu xem lại cuộc đời mình. Sau nhiều giờ đạp xe trong mùa thu vừa rồi, tôi đã tổng kết được một vài sự thật đơn giản như sau:

Thứ nhất, những đứa trẻ đều vắng nhà. Hai đứa học đại học, một đứa đã tốt nghiệp và đang có một công ty mới khởi nghiệp ở châu Phi. Chúng là những đưa trẻ “lớn” mà chúng tôi vô cùng tự hào. Tamar đã góp công lớn trong việc này. Cô ấy đã làm rất tốt. Rất tuyệt vời. Thế nhưng với Tamar và tôi, sẽ không còn những đêm thức vì bệnh viêm tai, không còn những trận hockey trên băng vào lúc 6 giờ sáng. Không còn ai chờ đợi/cần chúng tôi nữa.

Thứ hai, tới mua hè này, tôi sẽ hoàn thành 25-30 năm làm việc gần như liên tục và trở thành thành viên của FWIO, hội những người quá thành đạt một cách không an toàn trên thế giới. Đó là một cơn lốc của những trải nghiệm thực sự tuyệt vời. Nhưng như những gì tôi đếm được, tôi đã làm việc cuồng nhiệt trong vòng 1500 tuần. Lúc nào cũng trong tình trạng sẵn sàng, kể cả khi tôi không cần phải như thế. Đặc biệt là những khi tôi không cần phải như thế. Tôi có tội. Tôi yêu công việc của mình (đến giờ vẫn yêu), yêu đồng nghiệp, bạn bè và yêu cơ hội để dẫn đầu và thay đổi thế giới.

Thứ ba, mùa hè này, Tamar và tôi sẽ kỷ niệm 25 năm ngày cưới. Khi các con tôi được bạn bè chúng hỏi về thành công của một cuộc hôn nhân lâu bền, chúng chỉ đơn giản nói đùa rằng: Tamar và tôi dành quá ít thời gian cho nhau và vì thế còn quá sớm để nói rằng cuộc hôn nhân này có thực sự thành công hay không.

Giá như chúng có thể biết chúng tôi đã có với nhau bao nhiêu kỷ niệm đẹp. Bạn nghĩ chúng tôi có bao nhiêu? Bạn có bao nhiêu? Nhưng có một điều tôi chắc chắn, là tôi muốn có nhiều hơn nữa. Và cô ấy xứng đáng nhiều hơn nữa. Rất nhiều.

Hãy để tôi tiết lộ cho bạn phần còn lại của sự thật. Câu trả lời ngắn gọn là tôi không thể tìm được một lý do chính đáng nào để thuyết phục Tamar chờ đợi thêm một thời gian nữa cho đến khi chúng tôi có thể xách ba lô lên và đi. Chúng tôi sẽ tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm bên nhau bằng cách mở ra một trang mới và tận hưởng cuộc khủng hoảng tuổi trung niên một cách hoàn hảo trong ngập tràn hạnh phúc và vẻ đẹp, và đồng thời cũng mở rộng cánh cửa cơ hội cho vị lãnh đạo may mắn kế tiếp, ngay sau khi chúng tôi hoàn thành danh sách những điểm đến và những chuyến khám phá của mình.

Làm việc tại Google là một đặc ân. Tôi đã làm việc với những điều tốt nhất của tốt nhất, và tôi biết mình rời khỏi Google với một bàn tay đầy ắp. Tôi đã làm bạn với rất nhiều người ở Google. Larry, Sergey, Eric, cảm ơn mọi người vì tình bạn. Tôi xin mãi mãi biết ơn các bạn vì đã để tôi trở thành người tin cậy, sự ấm ấp, nguồn hỗ trợ và vì rất nhiều tiếng cười trong những lúc thăng trầm.

Hiện tôi vẫn làm việc ở Google. Tôi cần vài tháng để bàn giao công việc nhưng chỉ sau khi chúng tôi tìm được một vị CFO mới cho Google và giúp anh ấy/cô ấy nắm bắt được công việc. Điều này sẽ mất chút thời gian.

Cuối cùng, cuộc sống rất tuyệt vời, nhưng nó còn là hàng loạt những sự đánh đổi, đặc biệt là đánh đổi giữa công việc/nỗ lực chuyên môn và gia đình/cộng đồng. Tôi cảm thấy mình đang ở tại thời điểm mà từ giờ trở đi tôi sẽ không còn phải đưa ra bất cứ lựa chọn khó khăn nào như thế trong đời. Vì vậy, tôi cảm thấy vô cùng dễ chịu”.

LÊ NGA/ITCnew/DoanhnhanSG

Vụ án Dương Chí Dũng ‘được hâm nóng’?

Chánh án Tòa tối cao Trương Hòa Bình nhờ một thứ trưởng công an trả lời câu hỏi của dân biểu rằng “Vụ án Dương Chí Dũng đến nay đã kết thúc hay chưa?” nhưng sự việc có vẻ vẫn chưa đi đến đâu.

Truyền thông tại Việt Nam đưa tin tại phiên chất vấn Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trương Hòa Bình tại Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hôm 13/03/2015, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Bắc Việt đã “bất ngờ đặt câu hỏi” với ông Bình.

“Vụ án Dương Chí Dũng đến nay đã kết thúc hay chưa? Nếu kết thúc quá trình tố tụng như vậy thì có để lọt tội phạm không? Sau khi tướng Phạm Quý Ngọ mất, đồng chí Nguyễn Bá Thanh vẫn nói sẽ “đeo bám vụ việc đến cùng”. Giờ anh Thanh cũng mất rồi”, ông Việt được dẫn lời đặt câu hỏi.

Báo Dân Trí mô tả Chánh án Trương Hòa Bình nêu quan điểm rằng “câu hỏi này để Thượng tướng Lê Quý Vương – Thứ trưởng Bộ Công an cùng tham gia phiên chất vấn trả lời.”

Tuy nhiên, ngay sau đó Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đã phát biểu kết thúc phiên chất vấn, báo Dân Trí mô tả.

Và như vậy, Thứ trưởng Bộ Công an Lê Quý Vương đã không có cơ hội trả lời câu hỏi đưa ra trong cùng phiên chất vấn này.

Trong vụ án “làm lộ bí mật nhà nước” ông Dương Chí Dũng từng khai trước khi có quyết định khởi tố, lệnh bắt giam và khám xét, ông đã nhận được điện thoại “mật báo” của tướng Phạm Quý Ngọ với lời khuyên “nên lánh đi một thời gian”.

‘Phải đình chỉ’

Quyết định khởi tố vụ án “làm lộ bí mật nhà nước” được đưa ra trong phiên tòa xét xử ông Dương Tự Trọng cùng sáu đồng phạm tội ‘Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài’ hồi tháng 1/2014.

Quyết định này của Hội đồng Xét xử Tòa án Nhân dân Hà Nội sau đó đã được Viện Kiểm Sát Thành phố phê chuẩn và Cơ quan Điều tra của Bộ Công An vào cuộc, theo truyền thông trong nước khi đó.

Tuy nhiên Tướng Phạm Quý Ngọ qua đời do bị bệnh.

Vào ngày 19/02/2014, tức một ngày sau khi Tướng Ngọ qua đời, thẩm phán Trương Việt Toàn, người đã công bố Quyết định khởi tố vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” nói với báo VietnamNet rằng “trong trường hợp người bị tố cáo qua đời thì sẽ đình chỉ vụ án.”

“Trong trường hợp này chỉ có mình ông Ngọ bị tố cáo, mà đối tượng bị tố cáo đã qua đời nên theo quy định sẽ phải đình chỉ vụ án”, thẩm phán Toàn dẫn chiếu tới Điều 107 của Bộ luật Hình sự qui định “Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự.”

Cũng nên nhắc lại là trong vụ án “làm lộ bí mật nhà nước”, nhà chức trách Việt Nam mới chỉ khởi tố vụ án và chưa khởi tố bị can.‎

Tướng Từ Tài Hậu, Trung Quốc qua đời cách đây không lâu với nhiều cáo buộc tham nhũng

Vào tuần trước công tố Trung Quốc nói không khởi tố cựu Thượng tướng quân đội 71 tuổi Từ Tài Hậu qua đời vì ung thư với các cáo buộc tham nhũng.

Tuy nhiên Tân Hoa Xã đưa tin nhà chức trách vẫn điều tra các hoạt động kiếm lời phi pháp của ông Từ khi còn sống.

Tin cho hay vụ án của ông Từ sẽ được công bố trong nay mai.

“Chiến dịch chống tham nhũng trong quân đội sẽ tiếp tục bất chấp việc ông Từ qua đời, bài bình luận trên trang web Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc.

“Tất cả những người khác dính líu sẽ bị quy trách nhiệm. Sự nghiệp lớn xây dựng đất nước mạnh có nghĩa rằng chúng ta phải tiến và không thể để những người tham nhũng làm gánh nặng kéo chúng ta xuống”, bài bình luận nói thêm

@bbc

Nga giúp TQ trở thành ‘Vua Biển Đông’?

 
Căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng thời gian gần đây dâng cao do thái độ quyết liệt của Bắc Kinh trên biển Đông

“Nga có thể biến Trung Quốc thành ông vua ở biển Đông,” đó là tiêu đề bài phân tích chi tiết được đăng trên trang mạng chuyên về quan hệ chính trị quốc tế nationalinterest.org hồi cuối tháng Hai 2015.

Theo tác giả Harry J. Kazianis thì nhân vật có thể khiến cho biển Đông sôi sùng sục không ai khác ngoài Tổng thống Nga Vladimir Putin; Tình hình Ukraine rất có thể là chất xúc tác đẩy Trung Quốc lên vị thế thống trị ở vùng biển này nhờ vào vũ khí và công nghệ Nga, nếu như phương Tây trang bị vũ khí cho Ukraine.

Căng thẳng đang dâng cao tại vùng châu Á – Thái Bình Dương trong lúc Trung Quốc tiếp tục thay đổi địa thế với việc xây mới, mở rộng các đảo, bãi đá ở biển Đông, thậm chí xây cất các bãi đáp máy bay, cảng ra vào cho tàu biển, các trạm radar và thậm chí cả các điểm phóng hỏa tiễn chống tàu biển.

Mục tiêu thì quá rõ, tác giả bài viết bình luận, Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ trở thành bá chủ biển Đông nếu như các đảo mới được dùng cho mục tiêu tự nhiên, qua đó tuyên bố được chủ quyền.

Vì sao lại là Nga?

Trong những năm tới, nếu như Trung Quốc kết hợp được các công nghệ quân sự tân tiến có sẵn của mình, như hỏa tiễn tuần du tầm xa đạt độ chính xác cao, với các căn cứ mới được xây cất trên các hòn đảo ở biển Đông thì rất có thể đó sẽ là một cơn ác mộng cho Hoa Kỳ và các đồng minh, vốn đang làm mọi điều có thể để đảm bảo quyền có thể tiếp cận được tới các vùng then chốt ở châu Á – Thái Bình Dương.

Được hầu hết các chuyên gia quân sự phương Tây gọi là A2/AD (Vùng không được tiếp cận – “Anti-Access, Area Denial”), Trung Quốc đang dần tạo ra những điều kiện khiến cho các lực lượng của Hoa Kỳ, Nhật Bản và các đồng minh khác bị tổn thất nặng một khi xảy ra xung đột ở các chuỗi đảo.

Trung Quốc hiện dùng phi cơ SU-27 mua của Nga tuần tiễu trên vùng trời ở biển Hoa Đông

Trung Quốc trong mấy năm qua đã phát triển mẫu chiến đấu cơ thế hệ thứ năm, mẫu hệ thống hỏa tiễn đạn đạo đối hải phức tạp và các căn cứ tấn công trên biển bằng hỏa tiễn tuần du. Các hệ thống đó không phải là thứ dễ làm đối với bất kỳ quốc gia nào. Nếu như Bắc Kinh tìm được một bên sẵn sàng hợp tác, một quốc gia đã có sẵn các công nghệ đó thì sự hợp tác sẽ đem lại cho Bắc Kinh cú nhảy vọt cần thiết để có được những hệ thống vũ khí tân tiến cần thiết cho A2/AD nhiều năm trước khi Trung Quốc có thể tự làm được.

Về phần mình, Nga đang muốn báo thù về cuộc khủng hoảng Ukraine, rất có thể sẽ muốn đứng vào vai trò hỗ trợ đó.

Tác giả Harry J. Kazianis đưa ra một bối cảnh giả định: Phương Tây quyết định đã đến lúc trang bị vũ khí cho Ukraine. Nga quyết định cần phải phản công, và không chỉ phản công ở châu Âu. Khi đó, ông Putin sẽ muốn tìm kiếm trên toàn cầu xem đâu là nơi mà Nga có thể sử dụng một cách tốt nhất để phản công, và không nơi nào tốt hơn là tăng cường quan hệ đối tác với Trung Quốc, một quốc gia có khả năng làm tổn hại thực sự tới các nỗ lực “xoay trục” của Mỹ ở khu vực biển Đông.

Nga có thể giúp gì cho Trung Quốc nếu hai bên hợp tác?

Trung Quốc đang muốn tăng cường khả năng tạo vùng không tiếp cận trên không, và có những đồn đoán là Bắc Kinh sẽ lấy phi cơ SU-35 của Nga, mà việc mua bán sẽ được chính thức hóa một khi phương Tây cấp vũ khí cho Ukraine.

Với khả năng hoạt động rộng hơn so với loại phi cơ PLAAF-SU-27/J-11 hiện nay, SU-35 sẽ khiến Trung Quốc có khả năng triển khai các chiến đấu cơ phản lực tân tiến trong thời gian dài hơn ở biển Hoa Đông và biển Đông, cải thiện được mức độ hiệu quả của việc tuần tra trên biển ở nơi gần đây được tuyên bố là Vùng Định dạng Phòng không ở biển Hoa Đông (ADIZ), và có thể giúp Bắc Kinh thiết lập một vùng ADIZ ở biển Đông.

Loại phi cơ này sẽ áp đảo được hầu hết các chiến đấu cơ khác ở Á châu (chỉ thua F-22 và F-35), và lấp được chỗ trống cho tới khi Bắc Kinh có thể cho ra được chiến đấu cơ theo thiết kế thế hệ năm của mình.

Nếu như Trung Quốc trang bị cho loại phi cơ này những vũ khí đối hải tân tiến rồi đặt chúng ở các bãi đáp máy bay vừa xây cất tại bãi Gạc Ma (Johnson Reef) hay đá Chữ Thập (Fiery Reef), thì tức là sẽ có một loại vũ khí mới, có khả năng xác lập vùng cấm tiếp cận hoàn toàn đủ sức đẩy các lực lượng khác ra khỏi vùng nước cần được kiểm soát.

Tàu ngầm Nga sẽ giúp Trung Quốc tăng khả năng hoạt động ngầm dưới mặt nước và kiểm soát tốt hơn khu vực A2/AD muốn có

Trên biển, vẫn nhờ vào sự hợp tác với Nga, Trung Quốc có thể sẽ tăng cường được năng lực hoạt động ngầm dưới mặt nước nhờ vào việc mua các tàu ngầm mới. Vấn đề này đã được gắn liền với các tường thuật trên truyền thông về khả năng mua SU-35 từ mấy năm qua.

Công nghệ tàu ngầm mới sẽ đóng vai trò then chốt cho sức mạnh Trung Quốc, không chỉ về khả năng triển khai tàu nhiều chức năng dưới biển mà còn bởi Bắc Kinh rất có thể sẽ cóp nhặt, sao chép công nghệ mới từ những con tàu này. Chưa kể Trung Quốc cũng có vẻ quan tâm tới việc cải thiện công nghệ chống tàu ngầm (ASW), vốn là điểm yếu của Bắc Kinh.

Tuy hiện chưa có lời nhắc cụ thể nào về thỏa thuận tàu ngầm giữa Nga và Trung Quốc, nhưng rõ ràng là Moscow có thừa kinh nghiệm để giúp đỡ cho Trung Quốc trong lĩnh vực này. Nếu xét đến các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc duy trì khả năng tiếp cân vào những vùng không phận mà Trung Quốc coi là A2/AD chủ yếu là dựa vào việc các tàu ngầm Mỹ đi vào khu vực mà không bị phát hiện, thì sự hợp tác Nga-Trung trong lĩnh vực này có thể củng cố mạnh mẽ cho các kế hoạch A2/AD của Trung Quốc.

Liệu có điều gì khiến Nga lưỡng lự không?

Cuộc khủng hoảng Ukraine rõ ràng là chất xúc tác mạnh mẽ cho sự hợp tác công nghệ quốc phòng giữa Trung Quốc và Nga, tuy nhiên, sự hợp tác đó đã từng xảy ra trong quá khứ với việc Moscow đã trả một cái giá đắt. Nga rõ ràng sẽ cân nhắc một cách khôn ngoan về những gì đã xảy ra trước đây để thấy liệu việc bán vũ khí cho Trung Quốc có gây ra những thách thức gì về mặt dài hạn hay không.

Trung Quốc đã mua của Nga hai lô hàng, mỗi lô 24 chiếc SU-27 hồi thập niên 1990

Vụ mua bán phi cơ lớn giữa Moscow và Bắc Kinh hồi thập niên 1990 liên quan tới SU-27 Flanker thế hệ bốn, là loại phi cơ hiện vẫn đang rất được chuộng. Khi đó, Moscow đã không bán các thiết bị quân sự dùng công nghệ tân tiến cho Bắc Kinh kể từ sau khi hai bên căng thẳng với nhau do các vụ đụng độ đường biên.

Khi Liên Xô sụp đổ vào cuối 1991, ngành công nghiệp vũ khí của Nga đã rơi vào cảnh khó khăn. Nga có rất nhiều vũ khí có thể giúp Trung Quốc vượt qua được nhiều bước phát triển công nghệ quân sự, cho nên việc hợp tác có vẻ là điều hợp lý.

Về phần mình, có được công nghệ quân sự tân tiến nhất là điều vô cùng quan trọng và tới 1991, Bắc Kinh đã coi đây như điều quan trọng hàng đầu. Các chiến lược gia Trung Quốc đã kinh ngạc về tốc độ áp đảo các lực lượng Iraq mà phía Hoa Kỳ thể hiện trong Cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc nhận thức được rằng hầu hết những vũ khí mà họ có được đã là đồ cổ lỗ, và công nghệ Nga tuy chưa tân tiến bằng của Mỹ vẫn sẽ giúp họ tiến tới hiện đại hóa tốt hơn.

Hồi 1991, Moscow bán cho Bắc Kinh lô hàng gồm 24 phi cơ SU-27 trị giá khoảng 1 tỷ đô la. Năm 1995, Trung Quốc mua 24 chiếc SU-27 nữa từ Nga và lô hàng được giao vào 1996. Cùng năm, Trung Quốc và Nga tăng cường quan hệ đối tác khi Bắc Kinh trả khoảng 2,5 tỷ USD để được cấp phép sản xuất thêm khoảng 200 chiếc SU-27 tại Công ty Máy bay Thẩm Dương.

Hợp đồng này có một điều khoản quan trọng là phiên bản SU-27 của Trung Quốc, trong đó có dùng các thiết bị nhập khẩu từ Nga gồm thiết bị hàng không, radar và máy, sẽ không được phép xuất khẩu đi nước khác. Nga khi đó lo rằng Trung Quốc sẽ sao chép công nghệ hoặc học lỏm đủ về SU-27 để đến một ngày sẽ đem bán cho bên thứ ba và do đó sẽ khiến Nga thiệt hại nhiều tỷ đô la bán chiến đấu cơ phản lực.

Đáng tiếc cho Nga là thỏa thuận này đã kết thúc trong tai họa. Sau khi lắp được khoảng 100 chiếc phi cơ gì đó, Trung Quốc đã hủy hợp đồng vào năm 2004. Bắc Kinh nói các phi cơ loại này không còn đáp ứng tiêu chuẩn của mình. Ba năm sau, Trung Quốc hoàn toàn vứt bỏ hợp đồng sang một bên và phát triển một loại chiến đấu cơ mới, J-11. Chiếc phi cơ này trông hoàn toàn là bản sao của SU-27. Trung Quốc bác bỏ việc mình sao chép và nói chiếc máy bay hầu như toàn dùng các thành phần tự chế tạo và Trung Quốc đã tự phát triển được thiết bị hàng không, thiết bị radar của mình.

@bbc

Hồi ký Dương Văn Ba – Những Ngã Rẽ

Chương 11
THÁNG 5-1975 NHỮNG NGÀY KHÓ QUÊN

Ngày 1- 5-1975 chính quyền mới vừa vào đến Sài Gòn đã có thể tổ chức ngay một cuộc mít tinh lớn gồm hàng chục ngàn người trước Dinh Độc Lập để mừng ngày đại thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam và mừng ngày Quốc tế lao động 1- 5. Về mặt tổ chức quần chúng, biểu tình xuống đường, hoan hô đã đảo, đó là nghề “của chàng”. Không ai giỏi bằng những người của Mặt Trận Giải Phóng trong việc rỉ tai tuyên truyền, nói nhỏ và cũng không ai giỏi bằng cán bộ Mặt Trận trong việc sắp xếp ngày biểu tình vĩ đại đầu tiên dưới chế độ mới. Mới vào Sài Gòn nắm quyền toàn diện không đầy 24 tiếng đồng hồ thế mà những cán bộ dân vận, tôn giáo vận đã có mặt đều khắp. Không phải chỉ riêng sinh viên học sinh đi biểu tình mà cả nhà sư, linh mục, ni cô áo vàng áo lam ,các giáo sĩ  Cao Đài, đại diện các đoàn thể đều có mặt đông đủ trước Dinh Độc Lập trước 3 giờ sáng ngày 1-5-1975. Đáng nói hơn nữa là các nghệ sĩ sân khấu cải lương, kịch nói như Kim Cương, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Thành Được…đều có mặt trong cuộc mít ting mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chưa từng có một cuộc huy động hàng mấy chục ngàn dân tràn ra ngoài đường nhanh như thế. Không khí chiến thắng sục sôi trong lòng nhiều tầng lớp dân thành phố Sài Gòn. Có những người trong lòng hồi hộp âu lo chưa biết số phận mình ra sao, nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười hớn hở. Trước đây, tại Sài Gòn trên báo chí, trên cửa miệng đầu môi chót lưỡi của mọi người, rất ít thấy những từ ngữ như “hồ hởi phấn khởi”, nhưng vào ngày đó những từ ngữ mới mẻ này được loan truyền qua hàng trăm hàng ngàn loa phóng thanh khắp mọi nơi trong Sài Gòn. Người ta thấy hàng đoàn xe Jeep, xe lam ba bánh chở hàng trăm, hàng ngàn người, xe nào xe nấy cũng trương cờ đỏ sao vàng hoặc cờ đỏ nền xanh (cờ Mặt Trận Giải Phóng). Rất nhiều thanh niên đứng, ngồi trên các xe chạy quanh thành phố, đầu đội mũ tai bèo, cổ quàng khăn choàng tắm, vai mang băng brassard đỏ. Hai người làm tôi nhớ nhất khi thấy những cảnh này và hồi tưởng lại sau mấy chục năm vẫn như in trước mặt: đó là nhà văn Cung Tích Biền và phóng viên tập sự Nguyễn Văn Nhạn. Lúc đó tôi cứ ngỡ hai người này là cán bộ lâu năm hoạt động thành cho Mặt Trận Giải Phóng. Tôi có cảm giác nể nang họ vô cùng. Nhưng vài tháng sau tự nhiên bóng dáng của Cung Tích Biền của ngày đầu giải phóng lăng xăng chạy tới chạy lui trên các xe Jeep, bỗng nhiên mất hút. Cũng như bóng dáng của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, của tiến sĩ báo chí Huỳnh Văn Tòng trong ngày tiếp thu Dinh Độc Lập, hai người bạn đó của tôi theo đoàn quân Giải Phóng chạy xồng xộc vào Dinh Độc Lập, trên cánh tay mang brassard đỏ (hai bạn tôi chỉ xuất hiện hùng dũng vào ngày đó, hầu như chỉ có ngày đó thôi), sau này cũng lặn mất. Họ chẳng phải là cán bộ “cộm cán” gì của phía Mặt Trận Giải Phóng, họ chỉ là những thanh niên yêu nước, bấy lâu nay trong lòng sục sôi một ngày giải phóng độc lập, tự do, tự chủ. Họ “sướng” quá, nhảy cỡn lên. Có lẽ có ai đó trong Mặt Trận tổ chức các anh bạn trí thức này, ngày đó cho họ đeo băng đỏ trên tay, chạy ù ù vào Dinh Độc Lập tượng trưng cho các tầng lớp nhân dân cùng bộ đội cụ Hồ, lật đổ chính quyền cũ, tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế chính quyền mới.

Nỗi vui mừng dâng trào phụt lên từ mọi phía, mọi nơi, từ trong mọi người giống như sự phụt lên của những mạch nước ngầm khi có cơ hội bộc phát lên trên. Những ngày như thế là những ngày vui sướng của hàng vạn vạn con người từng khát khao chiến thắng sau bao nhiêu năm chịu đựng đắng cay, đau khổ. Lửa chiến thắng đã bùng lên trong đại đa số người dân Sài Gòn, lửa đó không ai dập tắt nỗi. Một điều mà những người cầm quyền mới, lúc đó có thể không thấy được, là lửa chiến thắng vào ngày 1-5-1975 cũng đã bùng cháy lên trong lòng, trong tận sâu thẳm trái tim của hàng trăm ngàn cán bộ, viên chức, quân nhân, sĩ  quan, trí thức, thầy cô giáo thuộc về chế độ cũ. Họ là những người sống và phục vụ cho chế độ cũ, vì sự sinh sống hàng ngày với những bó buộc đã tạo cho họ thói quen trong nếp sống của người công chức cũ. Nhưng trong sâu thẳm của lòng dạ từng con người Việt Nam vẫn tiềm tàng lòng yêu nước. Những người bình thường nhất trong số họ, sau những phút giây ngắn ngủi đầu tiên bỡ ngỡ, cũng chợt tỉnh thức và cũng chợt dấy lên niềm sung sướng được sống đời độc lập, không thấy bất cứ một bóng dáng ngoại nhân nào trên quê hương họ. Niềm vui sướng đó là động lực lớn, là yếu tố chính khiến hàng triệu người đã từng sống dưới chế độ cũ, cảm thấy thoải mái tự nhiên tuân hành và đi theo những mệnh lệnh sắp xếp của chính quyền mới.

Tôi còn nhớ ngày chế độ mới công bố lệnh buộc quân nhân công chức chế độ cũ, những người tương đối ở các vị trí then chốt, phải đi học tập cải tạo. Sĩ quan từ cấp đại uý trở xuống, đi học tập 10 ngày, từ cấp thiếu tá trở lên, chuẩn bị áo quần và lương thực, tiền bạc để đi học tập một tháng. Lệnh này cũng áp dụng cho các loại công chức khác, cấp từ chủ sự phòng trở xuống, đi học 10 ngày, các loại công chức cao cấp hơn đi học một tháng.  Đại loại, lệnh triệu tập đi học cải tạo tập trung được ban ra, đại đa số các thành phần sĩ quan công chức cao cấp đều răm rắp tuân theo. Trong lòng họ dĩ nhiên có nỗi lo âu, nơm nớp, nhưng vẫn pha lẫn chút hy vọng loé lên: sau khi đi học tập 10 buổi hoặc một tháng trở về, họ sẽ được sống đời bình thường của một công dân đàng hoàng tử tế. Đại đa số những người đó với tinh thần tôn trọng kỷ luật mới của chế độ mới, họ đi tập trung rần rần và ào ào cả vài trăm ngàn người. Ở thành phố Sài Gòn lúc đó người ta bàn tán xôn xao, chắc là đi học xong không lâu sẽ được về. Với niềm hy vọng và sự tin tưởng sẽ được trở về, họ đã chuẩn bị thu xếp gia đình từ giã vợ con để đi đến trường cải tạo với một niềm tin sẽ có cuộc sống mới. Đâu có ai ngờ, họ không phải đi 10 ngày hay một tháng mà hầu như đại đa số bọn họ phải đi nhiều tháng nhiều năm. Họ không phải đi học ở gần nhà, ở các trường huấn luyện quân sự hay ở các trường huấn luyện chính trị. Đại bộ phận họ phải đi học thật xa, đa số ra ngoài miền Trung rồi ra miền Bắc. Họ sống ở những trại cải tạo đúng với ý nghĩa của những trại giam và bọn họ được đối đãi như những người tù, những người tù không có bản án, không có những án lệnh riêng tư, họ là những người tù tập thể. Họ sống đời sống của những tù nhân chính trị không thua gì những người tù khổ sai. Về mặt công khai, họ không bị kết án tù. Về mặt công khai gia đình vợ, con họ nhiều năm nhiều tháng không liên lạc được với họ, không hiểu số phận của họ ra sao. Đối với bản thân họ, thông cáo kêu gọi đi học tập cải tạo tập trung là một thông cáo lường gạt, đẩy họ vào nhà tù một cách không ngờ, không lý do giải thích, không bản án và không có thời hạn.

Sau này, vài ba năm kể từ ngày họ đi học tập cải tạo vợ con họ mới tìm đường liên lạc, chạy hỏi han khắp nơi khắp nẻo mới biết được họ đang ở đâu và mới có thể tìm thăm gặp. Những bi kịch về đời đi học tập cải tạo của hàng triệu sĩ quan và công chức chế độ cũ, đi học ở tận những tỉnh, những vùng sâu vùng xa, trên núi trên rừng, những thảm cảnh đó chỉ có những người sống trong cuộc mới có thể hiểu và lột tả được hết. Có ít ra là một hai trăm ngàn người đã ngã bệnh và đã chết trong thời gian đi học tập cải tạo. Đúng ra, họ đã phải sống đời của những người tù bị xử như tù thua trận. Họ không phải là tù binh, cũng không phải là tù chính trị. Trong ròng rã hơn 10 năm kể từ tháng 6-1975 và những năm sau đó, họ, những ngươi đã đi vào trại cải tạo với niềm tin là sẽ đuợc trở về sau một tháng rèn luyện, họ và gia đình của họ đã bị nhầm lẫn to lớn. Điều đó đã để lại trong họ những vết tích, những dấu ấn mà vài chục năm sau mới mong xoá nhòa đi được. Đại bộ phận của những người đi học tập cải tạo trên 10 năm, đã lâm vào những cảnh tan nát, éo le khó lòng tả hết được. Sau khi chồng con họ đi học tập vài ba năm đại bộ phận những người thân ở lại, đã tìm đường di tản, tị nạn. Họ đi bằng đường biển, họ đi bằng đường rừng núi. Đi đường nào thì cũng đầy những khổ ải gian truân. Hầu như 30 – 40% những người vượt biên là thân nhân của những người đi học tập cải tạo. Trên 1,5 triệu người đã vượt biên và chỉ có non một triệu người may mắn được tới những bến bờ sống sót. Ngày nay viết lại những dòng mô tả, nhắc nhở về giai đoạn những tháng cuối năm 1975 cho đến những năm 1985 – 1986 là nhắc về thời kỳ đen tối trong lịc sử của những người sống sót từ chế độ cũ, là nhắc về giai đoạn sống trong khổ ải và hờn căm của đại bộ phận những người đi học tập cải tạo. Bươi lại những vết đau của lịch sử, những vết đen của một thời kỳ thật ra không có ích lợi gì cho đất nước, cho bất cứ ai và nhất là cho người viết. Nhưng phải nhắc lại để nói đó là một thời kỳ lầm lẫn đáng tiếc của những người đã chiến thắng trong trận đấu tranh trường kỳ cho độc lập và tự do của tổ quốc. Công lao của những người chiến thắng đối với nền độc lập tự chủ của đất nước không ai có thể chối cãi được. Nhưng sai lầm của quyết định triệu tập hàng triệu người của chế độ cũ đi học tập cải tạo dài ngày giống như và đôi khi còn hơn những người tù khổ sai là một sai lầm lớn làm giảm mất hơn phân nửa khí thế của chiến thắng, làm thiệt hại to lớn tình đại đoàn kết dân tộc. Quyết định đó không phản ảnh được chính sách đại xá, đại hỷ xả của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tôi còn nhớ rất rõ một buổi nói chuyện với đại đa số trí thức Sài Gòn vào năm 1976 của Cụ Hà Huy Giáp, một bậc học giả uyên thâm của miền Bắc, một người rất thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Hà Huy Giáp có thuật lại cho các trí thức Sài Gòn nghe tại hội trường Dinh Độc Lập. Bác Hồ vào những ngày cuối đời, trước khi Bác mất, có gọi Bộ Chính Trị vào gặp Bác tâm sự. Bác Hồ có hỏi những vị trong Bộ chính trị: sau này nếu giải phóng hoàn toàn miền Nam, Bộ chính trị sẽ làm gì trước hết. Cụ Hà Huy Giáp không có thuật lại là những vị trong Bộ chính trị trả lời với Bác như thế nào. Cụ Hà Huy Giáp chỉ nhấn mạnh, trong cuộc gặp gỡ đó, Bác Hồ có căn dặn các vị trong Bộ chính trị, nếu giải phóng miền Nam xong là phải lập tức miễn thuế cho nông dân nhiều năm, là phải áp dụng ngay chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử, là phải đại xá ngay cho những người tù và kêu gọi mọi người đem tài đem sức cùng nhau xây dựng đất nước. Chính sách đại đoàn kết dân tộc, sau này người ta có nói đến, nhưng chính sách đại xá, hỷ xả quên đi những chuyện xấu trong quá khứ hình như người ta không áp dụng đúng, kể cả việc miễn thuế cho nông dân nhiều năm, hầu như cũng chẳng ai làm. Khi nói chuyện với các nhà trí thức Sài Gòn, cụ Hà Huy Giáp đã nhấn mạnh tới sự quảng đại bao dung của Bác Hồ, điều đó hình như khi ban hành lệnh học tập cải tạo tập trung, người ta đã không nhớ đến lời căn dặn của Hồ Chủ Tịch. Nếu quả đúng, chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày và 30 ngày theo như sự căn dặn trong thông cáo kêu gọi, không khí trong nhân dân miền Nam liền sau những ngày và những năm tháng mới giải phóng sẽ khác hẳn. Chúng ta sẽ có đựơc hàng triệu bàn tay, khối óc đắp xây cho một nước Việt Nam giàu mạnh sau chiến thắng. Hàng triệu người đã không phải ồ ạt tị nạn vượt biên, mang theo vô số của cải và mang theo hàng trăm ngàn đầu óc thông minh, trí tuệ sáng suốt, có kỷ thuật, có tay nghề và chắc chắn có trái tim yêu nước. Tiếc thay, bối cảnh lúc đó, người ta chỉ nghĩ đến việc cũng cố và xây dựng quyền lực thật vững chắc, thật chặt chẽ. Người ta nghi ngờ ở đâu cũng có kẻ địch và người ta khiếp sợ kẻ địch luồn lách trong đại đa số những nguời chế độ cũ để quấy phá và tìm cách lật đổ chính quyền. Người ta đã áp dụng chủ trương thà bắt lầm hơn thả lầm, thà giữ được quyền lực vững chắc trong tay bằng những biện pháp sắt máu hơn là để cho chính quyền cách mạng lung lay hay chông chênh trong bão táp chính trị của những phe phái phản động gây nên. Người ta đã quên một điều rất lớn: đại đa số nhân dân miền Nam yêu nước, đại đa số nhân dân miền Nam trước đây đều có mối quan hệ chằng chịt với hai phe hai phía, người ta đã quên một điều rất hiển nhiên, yếu tố thúc đẩy và làm nên chiến thắng chẳng thể đảo được của cách mạng là đa số nhân dân miền Nam đều yêu nước, đều phân biệt được chinh và tà, đều phân biệt được đâu là con đường đúng đắn và có lợi nhất cho dân tộc trong tương lai. Chính tính cách đó của nhân dân miền Nam đã góp phần quyết định chiến thắng vẻ vang của cách mạng. Nhưng cũng ngay sau đó người ta không phát huy mạnh mẻ tính cách này, người ta đâm ra đề phòng, người ta đâm ra chỉ thấy có những âm mưu quấy phá của kẻ địch và điều đó đã khiến có một thời kỳ có những sai lầm lớn mà hậu quả sau này lịch sử phải tốn nhiều thời gian để sửa chữa và hàn gắn lại. Theo tôi được biết, trong số những nhân vật lãnh đạo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có rất nhiều người không đồng tình với những giải pháp mạnh, cứng ngắt, với “bàn tay sắt” mà những nhà cầm quyền ở Hà Nội đem ra áp dụng vào những năm 1975…1980. Cụ thể, tôi nghe nói luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát kể cả ông Trần Bạch Đằng là những người đại diện cho khuynh hướng ôn hoà, chủ trương hoà bình – hoà giải – và hoà hợp dân tộc. Những vị này, gốc người miền Nam, hiểu rõ tâm tính của dân miền Nam, muốn có một giai đoạn giao thời kéo dài, trong giai đoạn đó, những khác biệt về cơ cấu, về tính cách, về hoàn cảnh, về trình độ văn hoá, về cách sống cách ứng xử của nhân dân hai miền sẽ có cơ hội làm quen hoà hợp, lần lần sẽ tiến tới một sự thống nhất, đồng thuận đương nhiên trong cơ cấu văn hoá chính trị xã hội. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, chân lý đó không có ai thay đổi được. Chân lý đó theo thời gian sẽ hàn gắn hoà đồng mọi khác biệt sau hơn 20 năm chia cắt. Tự thân cuộc sống của dân tộc trong bước đường phát triển, trong bước đường đi lên sẽ dẫn tới sự đại đoàn kết, sự đại thống nhất trong một nước Việt Nam hùng mạnh, có khả năng dung hợp mọi thành phần, luôn đón chào mọi sự đóng góp của những người con thân yêu của đất nước, của mọi trí tuệ Việt Nam, không phân biệt màu sắc tôn giáo, không phân biệt địa phương, không phân biệt thành phần xã hội; một nước Việt Nam của mọi con người tiến bộ. Chúng ta đã làm mất gần 20 năm sau chiến thắng 1975, chúng ta đã đẩy lùi và chận bước tiến của dân tộc bằng những biện pháp phân biệt đối xử, bằng đối sách nghi kỵ, bằng sự củng cố quyền lực quá mạnh, quá tay, nếu không muốn nói là bằng giải pháp độc quyền yêu nước của thời kỳ 1975 và một số năm về sau. Đó là một lỗi lầm quá lớn đối với lịch sử, nó đã khiến đất nước chúng ta không phải đi chậm lại, mà đôi khi còn bị đẩy lùi về sau so với một nước bạn láng giềng trước đây chỉ so kè với ta. Đó là Thái Lan.

Nhắc lại những ngày tháng đầu tiên kế tiếp theo sau tháng 4-1975, chúng ta không khỏi nhắc tới, với lòng ưu phiền, với sự ân hận và với sự tiếc rẻ. Nhiều người đã giải thích cuộc cách mạng nào trong bước đầu thành công cũng có một thời kỳ ấu trĩ đáng tiếc và đáng buồn. Nhận chân ra được những năm sau 1975 là những năm trưởng thành trong ấu trĩ, đó cũng là một nhận định can đảm trước thực tế chua chát, đôi khi đáng nản và đáng phẫn nộ của những người cầm quyền. Bản thân tôi, một trí thức yêu nước, không đảng phái, không tôn giáo, đã lớn lên trong một thời kỳ đất nước có nhiều nghiêng ngửa, nhiều xáo trộn, tôi đã may mắn đi theo con đường hoà bình của nhóm ông Dương Văn Minh. Tôi không phải là một người theo chính quyền cũ, một người đi theo Mỹ mặc dù tôi có nhiều cơ hội để đi theo. Mới đây, một ông bạn tôi, bác sĩ Trương Thìn, một chuyên gia đáng quý của đất nước về y học cổ truyền của dân tộc, đã nói đùa với tôi: “vous êtes l’homme bien marqué par les deux régimes” (anh là người được hai chế độ đánh dấu khá cẩn thận). Ông bạn tôi là người rất ít nói, ông vừa là một bác sĩ có tài, vừa là một nhà thơ, một hoạ sĩ và là một nhạc sĩ. Công lao của ông đối với nền y học dân tộc rất lớn lao, ông đã đem sự an vui đến cho hàng trăm ngàn người sau mấy chục năm hành nghề vừa Tây y vừa Đông y. Ông là một nhà văn hoá, một nhà chuyên môn giỏi không màng đến lợi danh chính trị. Ông nói về tôi như thế với sự thông cảm của một người hiểu đời, hiểu số phận cay đắng của những kẻ từng lội giữa hai dòng nước. Mà ở miền Nam này đâu phải có mình tôi lội giữa hai dòng nước. Đã có biết bao nhiêu thanh niên trí thức vào lớp tuổi của tôi, không đi theo phe này phe kia, chỉ sống một đời bình thường của một người vô danh, yêu đất nước Việt Nam, muốn cho đất nước độc lập, hoà bình, dân chủ và giàu mạnh. Đã có bao nhiêu người như thế bị vùi dập giữa hai dòng nước, giữa hai dòng đời. Cái may của tôi là có một thời kỳ tham gia làm báo và làm chính trị. Tôi khác hơn nhiều người cùng một tâm trạng và một tâm tinh với tôi, chỉ ở điểm đó. Tôi nhớ lại, sau ngày giải phóng, không phải đương nhiên tôi được xếp vào loại miễn đi học tập cải tạo vì trước ngày 30- 4-1975 tôi không hề trực tiếp tham gia hay được trực tiếp móc nối để hoạt động cho cách mạng. Nhât báo Điện Tín do tôi làm phó chủ bút thường trực (tổng thư ký toà soạn) từ cuối năm 1971 đến 2-1975, đóng góp rất lớn vào cuộc đấu tranh chống Mỹ can thiệp vào Việt Nam, chống chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Tôi hướng tờ báo theo đường lối đó vì đường lối đó hợp với tâm tinh và nguyện vọng của tôi. Cọng tác với tôi để làm nên tờ báo, để biến nó thành một vũ khí đấu tranh cách mạng còn có sự tham gia hàng trăm cây viết khác, trong đó có sự trực tiếp tham gia của một vài cán bộ cộng sản nằm vùng. Trong quá trình làm việc, do có một vài va chạm vì tinh tình và quyền lợi cá nhân, có một người cán bộ cũng khá có thế lực, có lẽ không ưa tôi. Đo đó, anh ta đã có những báo cáo không trung thực. Chính vì thế, ban đầu tôi được quyết định xếp vào loại phải đi học tập cải tạo. Tôi đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng, đầu hớt tóc cua, trong túi xách thủ theo vài ba cái quần đùi, vài ba cái áo thun, sẵn sàng lên đường. Anh bạn tôi, vừa là ông anh, Hồ Ngọc Nhuận, vào thời 1975 rất có uy tín với những người nắm chính quyền mới. Chính anh Hồ Ngọc Nhuận đã đấu tranh quyết liệt, anh kết luận: “suốt nhiều năm làm việc với Dương Văn Ba, tôi nhận thấy anh ta có lòng yêu nước nồng nàn, có tích cực đấu tranh cho cách mạng. Nếu cách mạng buộc Dương Văn Ba đi học tập cải tạo, Hồ Ngọc Nhuận cũng tình nguyện đi học tập cải tạo theo”. Sự đấu tranh tích cực của Hồ Ngọc Nhuận âm thầm, tôi không hay biết đã khiến cho chính quyền cách mạng ở Sài Gòn thay đổi thái độ với tôi. Vào đêm trước ngày khắp nơi ở miền Nam, hàng triệu người phải khăn gói lên đường đi học tập cải tạo, tôi còn nhớ khoảng 10 giờ đêm, lúc đó trời đang mưa, có một chiếc xe Volswagen 12 chỗ ngồi lù lù chạy đến cổng số 3 đường Trần quý Cáp – quận 3, Sài Gòn, bóp kèn inh ỏi. Tôi ra mở cửa, mặc quần xà lỏn và áo thun lá, chuẩn bị sáng mai lên đường sớm. Một người ngồi trên xe ô tô bước xuống hỏi: “Có phải ông là Dương Văn Ba hay không?”. “Dạ phải”. “Tôi mang công văn của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia định đến cho anh”. Vừa nói, người ấy vừa đưa cho tôi một phong bì màu trắng. Tôi nhận lấy và cám ơn. Người khách vội vã trèo lên xe ra đi không kịp từ biệt tôi. Tôi quay vào nhà. Cả nhà em út, vợ con xúm xít lại đọc bức thư của Ủy Ban Quân Quản gửi cho tôi:

Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn Gia Định

Kính gửi: Ông Dương Văn Ba

Tôi xin trân trọng báo tin cho ông biết: Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định đã có quyết định cho ông được miễn đi học tập cải tạo kể từ ngày….(tôi không còn nhớ rõ).

Chánh văn phòng Ủy Ban Quân Quản

Thành phố Sài Gòn Gia định

Ký tên

Thượng tá Nguyễn Văn…

Đọc xong bức thư thông báo của Chánh Văn Phòng Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định, cả nhà tôi reo lên. Ai nấy cũng vui mừng kể cả thằng con nhỏ nhất của tôi vừa mới 4 tuổi. Lúc đó, cả tôi và vợ tôi đều nói: “Thế là Bác Hồ đã soi rọi đến gia đình mình” vừa nói như thế chúng tôi đều đồng loạt nhìn lên ảnh Bác Hồ đang treo trên tường giữa nhà (vào thời gian đó, ở thành phố Sài Gòn, bất cứ nhà của ai cũng đều có treo ảnh của Hồ Chủ Tịch để bày tỏ quan điểm ủng hộ chính quyền và để đảm bảo được yên thân).

Tưởng cũng nên nhắc lại một vài sự kiện liên quan đến vấn đề học tập cải tạo: tôi được miễn đi học tập cải tạo tập trung như hàng mấy trăm ngàn người khác. Ở Sài Gòn, mấy tháng sau ngày giải phóng, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc có mở lớp học tập đặc biệt cho khoảng 40 trí thức chế độ cũ trong đó có cả Hồ Ngọc Nhuận và Ngô Công Đức. Tôi được danh dự tham gia khoá học tập này. Khóa này chỉ kéo dài 3 tuần lễ. Giảng viên nổi bật lúc đó là ông Mai Chí Thọ, sau này có thời gian là Giám đốc Công an TP.HCM, Chủ Tịch UBND Thành phố, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Một giảng viên khác của khoá học ngắn ngày này là ông Tạ Bá Tòng, Thường trực UBMTTQ Thành phố. Sau khoá học đó khoảng một năm, chúng tôi được cấp giấy chứng nhận trả lại quyền công dân. Anh Hồ Ngọc Nhuận, khi nhận được giấy này cũng rất buồn cười, có nói với anh em: kể cả tôi, đã từng có thời gian làm việc móc nối cho cách mạng, vẫn có lúc bị coi như không có quyền công dân. Xin kể lại một chuyện có thật, ngay những ngày đầu sau giải phóng, trong lúc sắp xếp bộ máy nắm quyền tại thành phố Sài Gòn, anh Hồ Ngọc Nhuận từng được đề bạt dự kiến giữ vai trò Phó Chủ Tịch của UBND Cách Mạng Lâm Thời Sài Gòn – Gia Định. Những người khác như ông Lý Quý Chung cũng từng tham dự khoá học ngắn ngày cùng với chúng tôi, trong đó có cả bác sĩ  Hồ Văn Minh người từng được ông Dương Văn Minh mời đứng chung liên danh ứng cử Tổng Thống. Đặc biệt, trong tháng 5 và tháng 6-1975, tôi và anh Lý Quý Chung hai , ba lần được Ban Quân Báo của miền Nam mời đến nhà số 2 đường Lê Văn Hưu, quận 1 để hỏi thăm chi tiết về một số sự việc trong tình hình Sài Gòn mấy tháng trước ngày giải phóng. Tôi được Đại tá Ba Lâm (hình như sau này phụ trách Giám đốc nhà Bảo Tàng tội ác Mỹ Ngụy) yêu cầu viết bản báo cáo về tình hình hoạt động 6 tháng liên tục trước ngày 30 – 4 –1975. Tôi đã để dành thời gian 2 tuần lễ cắm cúi viết bản báo cáo thời sự chính trị này đem đến nộp tại cơ quan của Đại tá Ba Lâm. Bản báo cáo của tôi dày gần 200 trang, ghi lại tất cả những diễn biến trong tình hình Sài Gòn lúc bấy giờ qua phản ảnh của báo chí hàng ngày tại miền Nam Việt Nam. Bản báo cáo của tôi cũng phân tich rõ ràng và trung thực những hoạt động của nhóm Hoà Bình Dân Tộc do ông Dương văn Minh đứng đầu. Một điều mà đến bây giờ tôi còn tiếc rẻ: đó là toàn bộ các bản “coupure de presse” mỗi ngày từ tháng 6-1974 đến hết tháng 4-1975 tôi đều đem nộp cho cơ quan của ông Ba Lâm. Các tài liệu báo chí đó rất quí giá để sau này có thể làm tài liệu viết sách. Bây giờ không biết còn được lưu trữ và giữ hìn hay không.

Những ngày trong tháng 5-1975, đa số trí thức Sài Gòn cũ có chút tên tuổi và có dính líu đến các hoạt động chính trị, mà còn ở lại đều được quan tâm chăm sóc kiểu này hay kiểu khác. Thực tế không có một sự làm khó làm dễ nào, mà chỉ là những nỗ lực, những động tác tìm hiểu, những động tác làm quen của những người cầm quyền mới, đối với lực lượng có thể được coi là cốt lõi, tinh hoa còn sót lại của Sài Gòn cũ, mà báo chí thời kỳ bấy giờ thường quen gọi là thành phần thứ ba…
@ Viet-Studies